Sự nghiệp chính trị và Estado Novo António de Oliveira Salazar

Hoàn cảnh

Salazar mới 21 tuổi vào thời điểm cuộc cách mạng mùng 5 tháng 10 năm 1910, cuộc cách mạng đã lật đổ chế độ quân chủ Bồ Đào Nha và thành lập nền Đệ Nhất Cộng hòa Bồ Đào Nha. Chính thể này tồn tại tới năm 1926, sau đó bị lật đổ bởi chính phủ độc tài quân sự Ditadura Militar, tới năm 1928 đổi tên thành Ditadura Nacional (Chế độ Độc tài Bồ Đào Nha).

Thời kì Đệ Nhất Cộng hòa Bồ Đào Nha được xem là "tiếp diễn những cuộc hỗn loạn, tham nhũng đầy rẫy trong chính phủ, các cuộc bạo loạn và cướp bóc, ám sát và thanh trừng, bắt bớ tùy ý và các cuộc khủng bố tôn giáo"[14] Chính quyền này đã qua tám đời tổng thống, 44 lần tái tổ chức nội các và 21 cuộc cách mạng.[14][15] Chính phủ đầu tiên của nền cộng hòa này chỉ trụ được 10 tuần, và chính phủ lãnh đạo lâu nhất cũng chỉ chưa đến 1 năm. Cuộc cách mạng này ở Bồ Đào Nhà được xem như trò cười trên khắp lục địa già. Chí phí để người Bồ Đào Nha sinh sống đã tăng gấp 25 lần, trong khi giá trị đồng tiền rớt xuống còn 1⁄33 so với giá vàng. Nền kinh tế Bồ Đào Nha vốn đã bị tàn phá nghiêm trọng từ cuộc vỡ nợ ở thập niên 90 của thế kỉ XIX, nay càng trầm trọng hơn. Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo càng tăng lên. Việc Bồ Đào Nha tham chiến ở Thế chiến thứ nhất vào năm 1916 khiến tình hình trong nước càng xấu thêm.[16][17] Đồng thời, việc các nhà thờ công giáo bị truy lùng bởi các thành viên chống lại giáo hội của Hội Tam Điểm bên trong chính phủ, những cuộc ám sát chính trị và khủng bố triền miên khiến người dân Bồ Đào Nha coi những việc này trở nên quá đỗi bình thường. Vào giai đoạn giữa năm 1920 và 1925, theo số liệu của cảnh sát, chỉ tính riêng Lisboa đã có 325 vụ đánh bom.[18] Nhà ngoại giao Anh Quốc, Sir George Rendel miêu tả Bồ Đào Nha giai đoạn này "không còn gì để nói về tình hình chính trị ngoài sự tồi tệ đáng thương... rất khác với một Bồ Đào Nha kỷ luật, thịnh vượng và được lãnh đạo tốt bởi chính phủ của ông Salazar".[5] Salazar đã lấy thời điểm hỗn loạn này như một bài học để ông có thể lãnh đạo đất nước tốt hơn về sau này.

Sự bất bình của nhân dân dẫn tới cuộc đảo chính ngày 26 tháng 5 năm 1926.[19] Tại thời điểm lúc bấy giờ, xu hướng chính trị ở Bồ Đào Nha là các đảng phái thường hoạt động chia rẽ, khiến thể chế đại nghị bị khủng hoảng nghiêm trọng, và kì lạ thay xu hướng này lại rất được xem trọng. Những người Bồ Đào Nha sau khi đã trải qua những bất ổn chính trị từ trước đã khiến họ không còn tin tưởng vào thể chế đại nghị.[20] Họ cho rằng chủ nghĩa tự dothể chế đại nghị có thể hoạt động tốt ở Hoa Kỳ hay Anh, nhưng ở Bồ Đào Nha thì không phù hợp, cả về hệ tư tưởng lẫn lợi ích quốc gia.[19]

Sự nghiệp chính trị ban đầu

Là một thanh niên, Salazar bắt đầu tham gia chính trường với quan điểm tôn giáo của mình, điều vốn đã bị đàn áp bởi những kẻ bài giáo hội trong chính phủ Đệ nhất Cộng hòa. Ông là thành viên của một phong trào công giáo tên Centro Académico de Democracia Cristã (Viện Dân chủ Công giáo)[19] Ông không ủng hộ chế độ quân chủ vì cho rằng nó sẽ mâu thuẫn với giáo lý được đề ra bởi Đức Giáo hoàng Lêô XIII, người mà ông rất ngưỡng mộ. Ông thường xuyên viết bài cộng tác cho các tờ báo xã hội, đặc biệt là tuần báo O Imparcial - tờ báo được chủ biên bởi người bạn thân của ông, Manuel Gonçalves Cerejeira (sau này là Hồng y Giáo trưởng của Lisbon)[21]. Tờ báo địa phương lúc bấy giờ miêu tả ông là "một trong những bộ óc xuất chúng nhất của thế hệ trẻ Bồ Đào Nha".[11]

Năm 1921, Salazar được tiến cử làm ứng cử viên chạy đua vào một ghế trong nghị viện, dù ông không thích điều này nhưng vẫn miễn cưỡng làm theo. Ông chỉ xuất hiện trong nghị viện một lần duy nhất và không bao giờ quay lại, nơi ông cho rằng là cực kỳ hỗn loạn và bắt ông phải chứng kiến sự bất tài của các nghị sĩ. Ông cho rằng sự tự do và chủ nghĩa cá nhân đã đưa xã hội Bồ Đào Nha chia rẽ và làm quá trình dân chủ ở đây đi chệch hướng.[22]

Cuộc diễu binh của tướng Gomes da Costa và lính của ông sau cuộc đảo chính ngày 26 tháng 8 năm 1926

Sau cuộc cách mạng ngày 26/8/1926, Salazar nhanh chóng gia nhập chính phủ của José Mendes Cabeçadas với vị trị Bộ trưởng Tài chính. Vào ngày 11 tháng 6, một nhóm vài người từ chính phủ mới đã từ Lisbon đến Santa Comba Dão để thuyết phục ông giữ chức Bộ trưởng Tài chính. Salazar đã dành ra năm ngày ở Lisbon. Dù vậy những ý tưởng ông đề xuất để ổn định lại nền kinh tế đều bị từ chối, khiến ông cực kỳ tức giận và ngay lập tức quyết định từ chức, đi xe lửa quay về Trường Đại học Coimbra, ông cho rằng chính phủ mới thật hỗn loạn và liên tục bỏ ngơ những ý kiến của ông, làm ông không thể làm việc hiệu quả.[23]

Vấn đề quan trọng nhất của Bồ Đào Nha lúc bấy giờ là khoảng nợ công khổng lồ. Liên tục từ năm 1926 đến 1928, Salazar từ chối vị trí Bộ trưởng Tài chính, ông lấy lí do sức khỏe yếu, cha mẹ ông đã có tuổi và ông đã quen với việc dạy học hơn là hoạt động chính trị. Năm 1927, dưới thời của chính phủ Sinel de Cordes, nợ công của Bồ Đào Nha tiếp tục tăng. Chính phủ cố gắng để vay một khoản tiền từ ngân hàng Barings ở Anh dưới danh nghĩa Hội Quốc Liên, nhưng những điều khoản mà phía Anh đưa ra được cho là quá sức với Bồ Đào Nha. Với việc nền tài chính của đất nước mình chuẩn bị đến bờ vực phá sản, Salazar cuối cùng cũng chấp nhận vị trí Bộ trưởng Tài chính, ngay sau khi Óscar Carmona được bầu làm tổng thống. Tuy nhiên, trước khi đồng ý nhậm chức, ông đã gặp Carmona dưới danh nghĩa cá nhân và yêu cầu mình phải có toàn quyền kiểm soát các khoản chi tiêu của chính phủ, chứ không chỉ riêng Bộ Tài chính. Điều đó khiến ông gần như kiểm soát toàn bộ nền kinh tế của Bồ Đào Nha ngay sau khi lên nắm quyền.

Chỉ trong vòng một năm, Salazar đã cân bằng lại ngân sách của Bồ Đào Nha và ổn định lại giá trị đồng tiền. Ông khôi phục lại vị thế của ngân hàng quốc gia, thúc đẩy lệnh trừng phạt nghiêm khắc đối với những quan chức tham ô và lãng phí. Cuối cùng các chính sách đúng đắn của Salazar đã tạo nên thặng dư kinh tế, một kỳ tích chưa từng có đối với Bồ Đào Nha lúc bấy giờ.[24]

Tháng Bảy năm 1929, Salazar lại trình lên quyết định từ chức một lần nữa vì lí do công giáo ở Bồ Đào Nha vẫn tiếp tục bị đàn áp. Bạn ông trong chính phủ, ngài Mário de Figueiredo - Bộ trưởng Tư pháp, vì muốn giữ ông ở lại trong nội các, cuối cùng đã phải nhượng bộ, ban hành các điều luật nới lỏng các chính sách về tôn giáo. Chính sách mới đã làm những kẻ phe cộng hòa trong chính phủ nổi giận và gây nên một cuộc khủng hoảng trong nội các, yêu cầu Figueiredo kí đơn từ chức. Salazar khuyên bạn mình nên phản đối yêu sách từ chức, nhưng đồng thời cũng nói rằng nếu Figueiredo ra đi thì ông cũng đi theo. Cuối cùng Figueiredo cũng kí đơn từ chức, và Salazar - lúc đấy đang điều trị trong bệnh viện vì bị gãy chân, từ chức theo vào ngày mùng 3 tháng 7. Ngay hôm sau, Carmona đã đến bệnh viện gặp riêng Salazar và khuyên ông nên thay đổi suy nghĩ, cùng lúc đó, ngài thủ tướng José Vicente de Freitas - người tích cực phản đối các chính sách của Carmona đã rời khỏi nội các. Salazar đồng ý trở lại vị trí cũ nhưng với quyền lực lớn hơn rất nhiều.[25]

Salazar vẫn tiếp tục công việc trong khi rất nhiều tướng lĩnh quân đội đảm nhân vị trí thủ tướng đến và đi. Vì thành công ông đạt được trong những năm đầu nhiệm kỳ, Salazar được coi là biểu tượng của nền kinh tế và là một giải pháp chính trị cho những sự hỗn loạn của chế độ độc tài quân sự ở Bồ Đào Nha, khi mà không một thủ tướng nào có thể đảm nhiệm được nội các. Cuối cùng, ngày mùng 5/7/1932, tổng thống Carmona bổ nhiệm ông làm Thủ tướng thứ 100 của Bồ Đào Nha, ngay sau khi Salazar bắt đầu các động thái can thiệp sâu hơn vào những quyết định chính trị ở Bồ Đào Nha [26]. Với một chính phủ đầy rẫy nhưng liên minh cánh hữu, ông bắt đầu thực thi những sự kiểm duyệt bóa chí và triển khai đàn áp chính trị để ổn định lại chính phủ. Những kẻ được xem là mang tư tưởng phát xít đều bị bỏ tù hoặc bị bắt sống lưu vong [27]. Nhóm Bảo thủ Công giáo là những người ủng hộ nhiệt thành nhất đối với Salazar, trong khi những người Bảo thủ Cộng hòa được xem là đối thủ đáng gờm nhất của ông giai đoạn đầu. Họ đã cố gắng đảo chính nhiều lần, nhưng hầu hết đều thất bại vì đều hoạt động riêng lẻ và thiếu đoàn kết. Cho dù ông chưa bao giờ là một người bảo hoàng, Salazar lại nhận được sự ủng hộ của những người theo chủ nghĩa bảo hoàng ở Bồ Đào Nha và cựu vương Manuel II, vị vua cuối cùng của Bồ Đào Nha đang sống lưu vong ở Anh sau khi bị những người cộng hòa phế truất năm 1910. Để đáp lại tình cảm ấy, sau khi cựu vương băng hà vào ngày 2/7/1932, Salazar đã cho tổ chức quốc tang trang trọng và đồng ý đưa di hài của ngài về hỏa táng ở Điện Pantheon, nơi an nghỉ của các vị quân chủ Bồ Đào Nha. Những người theo phong trào Movimento Nacional-Sindicalista - phong trào của những người cánh hữu, theo phong trào phát xít đã rất tức giận trước sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng với Salazar, họ cho rằng họ đã nhượng bộ các chính sách ông rất nhiều nhưng vẫn bị chính phủ của ông đàn áp. Phong trào dần tan rã vào cuối năm 1933 sau khi Salazar thành công trong việc ngăn chặn chủ nghĩa phát xít và quốc xã lan rộng trong chính phủ Bồ Đào Nha.

Salazar nhanh chóng đạt được quyền lực dễ dàng nhờ vào hình ảnh của một nhà lãnh đạo có học thức và những thành công lớn khi ông còn là bộ trưởng tài chính, bên cạnh đó là sự ủng hộ rất lớn của tổng thống Carmona. Tháng Bảy năm 1940, tạp chí Life của Mĩ đã phát hành một ấn phẩm đặc biệt về Bồ Đào Nha, trong đó có phần nói về những sự hỗn loạn trước kia "bất kì ai thấy hình ảnh Bồ Đào Nha 15 năm trước đều sẵn sàng nói đất nước ấy xứng đáng được biến mất trên bản đồ thế giới mãi mãi, một đất nước với một chính phủ tàn bạo và yếu kém, nợ nần chồng chất, xã hội thì bẩn thỉu, bị bệnh tật và sự nghèo khổ dẫm đạp lên". Bài báo cũng đề cao Salazar, cho thấy ông khó khăn như thế nào khi "tiếp quản một mớ hỗn loạn rồi trung hưng lại Bồ Đào Nha".[27]

Sự hình thành của Estado Novo

Salazar và nội các đầu tiên của mình năm 1932

Salazar định hình tư tưởng chính trị và quan điểm triết học của mình theo những giáo lý công giáo, tương đối giống với thể chế của người Áo lúc bấy giờ được lãnh đạo bởi Engelbert Dollfuss. Hệ thống kinh tế, được biết đền với tên gọi chủ nghĩa nghiệp đoàn, được dựa theo thông tri Rerum novarum (1891) của giáo hoàng Leo XIII và thông tri Quandeagesimo anno (1931) của giáo hoàng Pius XI [28], ý nghĩa chủ yếu của các thông tri này là ngăn chặn sự xung đột của các tầng lớp xã hội và chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế sản xuất, từ phục vụ quyền lợi cho giới tư bản sang phục vụ lợi ích chung của quốc gia. Thông tri Rerum novarum nêu rõ rằng các nghiệp đoàn lao động là một phần tử tự nhiên của xã hội kinh tế, giống như mối quan hệ giữa gia đình và xã hội. Còn thông tri Quandeagesimo anno chẳng khác gì một bản thiết kế xây dựng hệ thống kinh tế nghiệp đoàn.[29]

Estado Novo được thành lập thông qua bản hiến pháp mới được viết bởi Salazar, Marcelo Caetano và một nhóm các luật sư, nhà kinh tế học, giáo sĩ công giáo và các giáo sư đại học [30]. Hiến pháp quy định Estado Novo là một thể chế nhà nước lấy chủ nghĩa nghiệp đoàn làm ý thức hệ quốc gia, đề cao vai trò tập thể hơn là cá nhân. Salazar muốn thể chế của ông hoạt động dưới một tổ chức đại diện cho toàn bộ nhân dân, thay vì các đảng phái chính trị riêng rẽ, và tổ chức chính trị ấy phải đặt lợi ích quốc gia phải lên trên việc bảo vệ giai cấp. Ông cũng cho rằng chế độ đa đảng sẽ thất bại và làm suy yếu Bồ Đào Nha.[31]

Khác với MussoliniHitler, Salazar chưa bao giờ muốn tạo ra một đất nước độc đảng, thậm chí ông là người phản đối chế độ đảng trị. Dẫu vậy đảng National Union của ông lại thường được coi là đảng độc nhất cai trị, cho dù mục đích của Salazar là tạo ra một tổ chức đại diện và định hình ý thức hệ cho nhân dân, không phải đảng chính trị. National Union (tiếng Việt: "Liên minh Dân tộc') được lập ra để kiểm soát và hướng dân chúng đi theo ý thức hệ quốc gia hơn là để toàn trị, mục đích là giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hóa mà Salazar cho là phù hợp, trong đó có rất nhiều tư tưởng và cách sống từ giáo lý công giáo, thay vì áp đặt một trật tự xã hội mới như Đảng Phát xít quốc gia ở Ý hay Đảng Quốc Xã ở Đức làm. Các bộ trưởng nội các, các nhà ngoại giao và những người làm việc hành chính trong chính phủ chưa bao giờ bị ép buộc phải tham gia chính đảng National Union.[32]

Cơ quan lập pháp là Quốc hội, đa số ghế thuộc về các thành viên của National Union, với rất ít quyền lập pháp thật sự. Cơ quan lập pháp thực tế là Hội Nghiệp đoàn với các thành viên là đại biểu từ các đơn vị chính quyền vùng, các giám mục công giáo, những giáo sư và người có học vấn, cùng với một tổ chức công đoàn theo chủ nghĩa nghiệp đoàn.[33]

Theo lời Howard Wiarda "những chính khách đạt được quyền lực qua Estado Novo thực chất rất quan ngại với tình hình nghèo đói và lạc hậu ở quốc gia họ lúc bấy giờ, tách mình ra khỏi những ảnh hưởng chính trị từ người AnhMỹ, tự phát triển một hình mẫu chính trị riêng biệt để thay đổi sự nghèo khổ và điều kiện sống tệ hại ở vùng nông thôn và thành thị."[34]

Salazar thông qua hiến pháp mới, được viết bởi những người bài thể chế đại nghị và những người theo chủ nghĩa toàn trị, bản hiến pháp này được thông qua ở Bồ Đào Nha cho đến năm 1974. Tổng thống được bầu bởi số phiếu phổ thông với nhiệm kỳ 7 năm. Về mặt lý thuyết, mọi quyền lực đều nằm trong tay tổng thống, bao gồm quyền bổ nhiệm và bãi nhiệm thủ tướng[35]. Tổng thống là người có quyền hành cao nhất, là "bánh xe cân bằng" cho thể chế chính trị của quốc gia, là người bảo vệ và ra phán quyết để bảo vệ chính thể. Tuy nhiên, tổng thống Carmona lúc bấy giờ phải chịu sự ảnh hưởng từ các quyết định của Salazar. Cả ông và những người kế nhiệm ông sau này đều chỉ có quyền lực trên danh nghĩa và không nắm trong tay thực quyền nào. Wiarda cho rằng việc Salazar nắm trong tay nhiều quyền lực đến vậy đến từ tính cách của ông: một con người độc đoán, toàn trị, tham vọng nhưng cũng chăm chỉ, xuất sắc và cực kỳ thông minh.[36]

Bản hiến pháp của Salazar được thông qua sau cuộc chưng cầu ý dân năm 1933.[34][37] Bản phác thảo đã được xuất bản cho công chúng trước đó một năm và nhận được nhiều ý kiến tiêu cực trên các mặt báo, hơn 6000 người đã biểu tình chống lại bản hiến pháp mới.[37] Hiến pháp được thông qua sau khi chưng cầu được kết quả 99,5% tán thành, dù vậy có đến 488,840 người không tham gia bỏ phiếu (tài liệu chính thức của cảnh sát Bồ Đào Nha ghi nhận tới hơn 1 triệu người không tham gia chưng cầu)[37], phiếu của những người này được chính phủ xem là phiếu tán thành.[38] Sử gia Hugh Kay cho rằng việc nhiều người không tham gia bỏ phiếu vì họ bị chính quyền ép từ trước rằng phải chọn phiếu "có" hoặc "không", không có quyền tự chọn.[37] Trong cuộc chưng cầu thông qua hiến pháp, lần đầu tiên mọi nữ giới có quyền bỏ phiếu. Trước kia, trong thời kỳ cộng hòa, phụ nữ không có quyền bầu cử, quyền bỏ phiếu của họ trong các cuộc chưng cầu cũng rất hạn chế, để có thể bỏ phiếu họ ít nhất phải hoàn thành giáo dục phổ thông, trong khi đó nam giới chỉ cần biết đọc và viết.[39]

Năm 1933 được xem là năm quan trọng trong lịch sử Bồ Đào Nha. Dưới sự lãnh đạo của Salazar, Teotónio Pereira, thứ trưởng Bộ Nghiệp đoàn và Phúc lợi đã ban hành nhiều đạo luật cải cách, đặc biệt là cải tổ lại hệ thống chủ nghĩa nghiệp đoàn và khởi xướng đạo luật chăm sóc phúc lợi toàn diện cho nhân dân.[40] Hệ thống mới này đều có tư tưởng bài chủ nghĩa tư bản lẫn cộng sản. Sự nghiệp đoàn hóa này đã tạo ra những chính sách kiểm soát kinh tế gay gắt.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: António de Oliveira Salazar //www.amazon.com/dp/B00086D6V6 //www.amazon.com/dp/B000UVRG60 http://books.google.com/books/about/Ambassador_on_... http://digitalcommons.wcl.american.edu/cgi/viewcon... http://libro.uca.edu/payne2/index.htm http://books.google.es/books/about/Corporatism_and... http://books.google.es/books/about/Salazar.html?id... http://books.google.es/books/about/Wartime_Mission... http://books.google.es/books?hl=es&id=OWWJxLAAq9oC... http://books.google.es/books?id=CPN_QgAACAAJ&dq=eg...